Hiển thị các bài đăng có nhãn văn hóa Nhật Bản. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn văn hóa Nhật Bản. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2016

Lịch sử các ngôi nhà Nhật Bản

Nhà Nhật Bản đã được phát triển trong những năm qua bằng cách kết hợp giữa hình thức truyền thống và công nghệ hiện đại để nâng cao khả năng chống lửa và sự tiên nghi của chúng. Tuy nhiên, gần đây phương pháp xây dựng nhà truyền thống bắt đầu được ưa chuộng trở lại vì tính thân thiện với môi trường và sự bền vững theo thời gian.

Vào thời Nhật Bản cổ đại , về cơ bản có hai loại nhà khác nhau. Loại đầu tiên là nhà ở dạng hang, có các cột được đặt vào một lỗ lớn đào trên đất và được bao phủ xung quanh bởi cỏ. Loại thứ hai được xây dựng với sàn được nâng lên khỏi mặt đất. Kiểu nhà với một tầng được nâng cao lên được cho là có nguồn gốc từ Đông Nam Á, và loại nhà này thường được sử dụng để lưu trữ ngũ cốc và các thực phẩm khác để tránh bị hỏng bởi nhiệt và độ ẩm.

Nhà mỏ

Nhà mỏ và nhà sàn cao (Sannai-Maruyama Văn phòng Bảo tồn, Hội đồng Giáo dục Quận Aomori )


Vào khoảng thế kỷ XI, khi nền văn hóa độc đáo của Nhật Bản bắt đầu nở rộ, tầng lớp quý tộc bắt đầu xây dựng nhà của chính họ theo một phong cách riêng biệt được gọi là shinden – zukuri . Đây là loại nhà được nằm đối xứng  giữa một khu vườn rộng lớn, và các phòng được nối với nhau bằng những hành lang dài, giúp người ở thưởng thức những vẻ đẹp của thiên nhiên theo mùa.
Lối kiến trúc shinden zukuri ở Đền Itsukushima.

Khi quyền lực chính trị chuyển từ tay quý tộc đến các samurai (chiến binh) và một hình thức mới của Phật giáo du nhập vào Nhật Bản, những khía cạnh cốt lõi của văn hóa truyền thống Nhật Bản như chúng ta biết ngày nay đã bắt đầu bén rễ , bao gồm ikebana (cắm hoa), trà đạo, và kịch Noh . Samurai tạo ra loại nhà riêng của họ gọi là Shoin – zukuri. Sự ảnh hưởng này có thể được thấy ở các vật trang trí hốc tường trong phòng khách của những ngôi nhà hiện đại.

Shoin – zukuri


Nhà của những người dân thường phát triển theo những cách khác nhau. Nông dân ở các vùng khác nhau có nhà thích nghi được với điều kiện địa phương. Những ngôi nhà được xây dựng theo phong cách gassho ở Shirakawa -go, được liệt kê như là một di sản thế giới , là những ví dụ của nhà ở người dân thường sinh sống. Một số nhà của nông dân đã có nơi để nuôi gia súc và ngựa trong nhà , trong khi các ngôi nhà của người dân thành phố thường ép sát nhau dọc theo đường phố. Vì những ngôi nhà ở đô thị bị đánh thuế dựa trên chiều rộng mặt trước của ngôi nhà nên chúng thường được xây dài và hẹp. Kiểu nhà này ngày nay vẫn có thể thấy tại các thành phố lớn như Kyoto.

Một ngôi nhà theo phong cách gassho
Một ngôi nhà theo phong cách gassho

Nhà ở tiếp tục phát triển trong thời kỳ Minh Trị (1868-1912). Một số thị trấn có nhà ở được xây dựng theo phong cách kura – zukuri, bên ngoài đặc trưng theo kiểu Nhật nhưng được làm từ vật liệu chịu lửa hơn. Phong cách cơ sở của nhà Nhật Bản ngày nay, thường có một hành lang dài giữa căn nhà với các phòng nằm hai bên, được cho là sự kết hợp văn hóa nước ngoài với phong cách được ưa thích bởi các samurai.

kura – zukuri

Thứ Năm, 9 tháng 6, 2016

Kiến trúc nhà truyền thống Nhật Bản

CẤU TRÚC CỦA MỘT NGÔI NHÀ NHẬT BẢN


Nhà truyền thống Nhật Bản được xây dựng bằng cột gỗ dựng trên một nền đất , đá cứng bằng phẳng. Nhà gỗ tồn tại ở khắp nơi trên thế giới. Vậy những ngôi nhà ở Nhật Bản, nơi có bốn mùa rõ rệt , bao gồm cả một mùa hè nóng và ẩm ướt và một mùa đông lạnh có những đặc điểm gì nổi bật?

Ngôi nhà truyền thống Nhật Bản


Để tránh hơi ẩm từ mặt đất, sàn nhà được nâng lên vài chục cm và được đặt trên dầm đỡ bằng gỗ . Các khu vực như nhà bếp và hành lang có sàn gỗ, còn những phòng để mọi người ngồi như phòng khách thì được trải thảm tatami được dệt từ cói. Người Nhật thường không sử dụng ghế mà thường ngồi trực tiếp trên tatami hoặc trên đệm phẳng gọi là Zabuton . Đây là lý do tại sao mọi người phải cởi giày  khi bước vào một ngôi nhà Nhật Bản.
Giày dép


Khung của một ngôi nhà Nhật Bản được làm bằng gỗ và trọng lượng được nâng đỡ bởi cột trụ , dầm ngang , và thanh giằng chéo. Thanh giằng chéo được sử dụng từ khi các công nghệ của nước ngoài được đưa vào Nhật Bản. Một đặc điểm của nhà Nhật Bản là mái nhà lớn và mái hiên sâu để bảo vệ ngôi nhà khỏi ánh nắng mặt trời mùa hè, và khung nhà nâng đỡ được trọng lượng của mái nhà.

Nhà truyền thống Nhật Bản


Trước đây, các bức tường của ngôi nhà được làm bằng tre đan và được trát đất trên cả hai mặt . Ngày nay, mặc dù có nhiều loại vật liệu khác được phát triển nhưng gỗ dán vẫn thường được sử dụng nhất. Ngoài ra, trước đây nhiều ngôi nhà có cột được dựng lộ ra phía ngoài các bức tường. Nhưng trong thời kỳ Minh Trị (1868-1912), nhà ở được xây bằng phương pháp đặt các cột bên trong các bức tường để giảm thiểu nguy cơ hỏa hoạn. Nhiều mái nhà trước đây được lợp bằng rơm hoặc ngói , nhưng ngày nay hầu hết được lợp bằng ngói Kawara . Mái nhà là phần của ngôi nhà bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi mưa , gió, tuyết, ánh sáng mặt trời, và các điều kiện tự nhiên khác . Mặc dù có một số điểm khác biệt giữa mái nhà ở các vùng khác nhau của Nhật Bản , tất cả đều có một điểm chung: Những mái nhà đều dốc chứ không bằng phẳng, để nước mưa có thể chảy xuống dễ dàng.

Nhà truyền thống Nhật Bản
Nhà truyền thống Nhật Bản lợp ngói kawara

KIẾN TRÚC NỘI THẤT

Một trong những nét đặc trưng của ngôi nhà Nhật Bản là có nhiều cửa trượt . Vào thời xưa, đôi khi còn có vách ngăn để phân chia các phòng lớn . Các vách ngăn được gắn vào các bức tường, nhưng lại gây bất tiện nên rãnh trượt được tạo ra cho phép các vách ngăn có thể trượt . Đây là phong cách thường thấy trong các ngôi nhà Nhật Bản hiện đại ngày nay. “Shoji” ban đầu là thuật ngữ chung để chỉ vách ngăn giữa các phòng, nhưng ngày nay nó chủ yếu được dùng để chỉ cửa trượt làm bằng những hình vuông giấy dán trên mạng gỗ cho phép ánh sáng dịu nhẹ đi qua.

Chiếu tatami
Chiếu tatami


Ngày nay chiếu tatami được sử dụng để trải các sàn của tất cả các phòng, nhưng từ lâu, tatami được xem là một thứ khá xa xỉ và chỉ được sử dụng ở các khu vực mà mọi người sẽ thực sự ngồi . Các loại đệm vuông được gọi là đệm Zabuton phát triển từ thói quen ngồi trên tatami và từ đệm tròn được gọi là enza được sử dụng tại các đền chùa Phật giáo. Đệm Zabuton ban đầu là một tấm thảm làm từ vải đẹp, nhưng nó chỉ  mang hình dạng hiện tại từ nửa cuối của thời kỳ Edo (1603-1868), khi bông được thêm vào.

Nệm zabuton
Nệm zabuton

Trước đây, vào bữa ăn, mỗi người ăn từ một khay riêng đựng thức ăn giống như chiếc hộp. Tập quán mọi người tụ tập quanh một bàn ăn chỉ bắt đầu trong thời kỳ Minh Trị , khi thức ăn phương Tây và Trung Quốc trở nên phổ biến. Trong phòng có trải tatami thì không cần sử dụng ghế, vì vậy bàn có chân ngắn hơn nhiều so với các nước khác.

Vì phòng khách, nơi gia đình ăn tối với nhau, trở thành nơi tập trung sinh hoạt của họ ở nhà, nên thường có một tủ đựng bát đĩa để mọi người sử dụng . Tủ này được gọi là chadansu, ban đầu được sử dụng để cất các dụng cụ sử dụng trong trà đạo .

Tủ chadansu
Tủ chadansu

Vào mùa đông, người Nhật sử dụng bàn sưởi gọi là kotatsu khi ngồi trên tatami trong phòng khách. Kotatsu được cho là được phát triển tại các đền chùa Phật giáo Thiền tông vào thời trung cổ. Ban đầu nó sử dụng than tỏa nhiệt, nhưng ngày nay bàn sưởi được làm nóng bằng điện . Mặt trên và xung quanh của kotatsu được phủ bằng chăn để giữ nhiệt, và một tấm ván được đặt lên trên để các kotatsu có thể được sử dụng như một chiếc bàn.

Bàn sưởi kotatsu
Bàn sưởi kotatsu


Vào khoảng cuối thời trung cổ, tokonoma, một loại hốc tường nhỏ, xuất hiện trong nhà của các samurai. Các hốc tường được đặt trong phòng khách, ngoài hoa Ikebana truyền thống, thường có một bức thư pháp hoặc tranh theo chiều dọc để khách đến thăm nhà thưởng thức.


Hốc tường tokonoma
Hốc tường tokomoma

Phật giáo là tôn giáo chính ở Nhật Bản, cũng như ở nhiều nước châu Á khác . Tuy nhiên, vị thần bản địa cũng được tôn thờ bên cạnh Đức Phật trong nhà từ xưa. Bàn thờ Phật , được gọi là butsudan , có hình dạng giống như một chiếc tủ với cửa ra vào ở phía trước có thể đóng mở. Bàn thờ vị thần Nhật Bản, được gọi là kamidana, có hình dáng như một ngôi đền nhỏ và nằm trên một kệ gần trần nhà. Nó bao gồm một lá bùa, là một tờ giấy hoặc một bài vị gỗ với những văn tự trên đó.

Bàn thờ thần kamidana
Bàn thờ thần kamidana



Thứ Tư, 4 tháng 7, 2012

Đền thờ Fushimi Inari - Kyoto

Nhật Bản là quốc gia nổi tiếng với rất nhiều đền chùa cổ. Là quốc gia với nền tảng tôn giáo chủ yếu là thần đạo và phật giáo nên hiện giờ còn rất nhiều ngôi đền nổi tiếng rải rác khắp đất nước, trong đó Kyoto được xem là nơi có nhiều đền thần đạo nhất. Một trong số những ngôi đền đó là đền thờ Inari - nữ thần lúa gạo có tên gọi là Fushimi Inari. Đây là ngôi đền nổi tiếng nhất, có lịch sử lâu đời từ những năm 794 nằm tọa lạc tại cố đô Kyoto.


Fushimi Inari Taisha (伏見稲荷大社) là một ngôi đền nằm ở dưới chân núi Inari thờ phụng vị thần Inari (稲荷大神) là vị thần của Cáo, của đất đai, gạo, trà và sake, của Nông nghiệp và Công nghiệp, thần của sự Giàu có và thành công. Đền bao gồm những con đường mòn lên núi và nhiều với nhiều đền thờ nhỏ hơn trong đó khoảng 4 km và mất khoảng 2 giờ để đi lên. Đến thăm Fushimi Inari chúng ta có thể ngắm nhìn hàng ngàn chiếc cổng màu đỏ quanh những con đường mòn xinh đẹp.


Ngôi đền này được xây dựng năm 711 dưới sự bảo trợ của triều đình trong những năm đầu của thời kì Heian trên ngọn đồi Inari vì thế ngôi đền mang tên Fushimi Inari là vậy. Sau này vào năm 965, ngôi đền nổi tiếng này được dời xuống chân đồi Inari như ngày nay giữa những cây tuyết tùng Nhật Bản to lớn. Ngồi đền này là một trong 4 vạn đền thờ của đạo Shito (Thần đạo) trên khắp nước Nhật Bản thờ vị thần Inari, một vị thần được cả nước Nhật sùng kính, là vị thần của Cáo, của đất đai, gạo, trà và sake, của Nông nghiệp và Công nghiệp, thần của sự Giàu có và thành công của đất nước xứ sở Phù Tang.


Cũng như tất cả đền thờ thần Inari, ngôi đền Fushimi có một ngôi chính điện sơn màu đỏ thẳm được nối liền với dãy hành lang với hai hàng cột hai bên hun hút sơn màu đỏ son và vô số các pho tượng bằng đá, sứ giả của thần Inari là một con cáo. Theo truyền thuyết thì cáo chính là con vật truyền tin của nữ thần Inari nên xung quanh đền có rất nhiều bức tượng cáo được tạc tỉ mỉ, nhiều hình dạng và kích cỡ khác nhau.  Mặc dù kiến trúc điện thờ rất thu hút và đáng để ghé thăm, nhiều du khách lại chỉ đến để khám phá khu vực xung quanh. Nổi bật ở chỗ, con đường dẫn đến ngôi đền được gọi là Senbon Torii (千本鳥居) nghĩa là “Vạn cổng Torii” (Torii là cổng trước mỗi ngôi đền thờ thần của Nhật Bản) ước tính có đến hơn 10000 cánh cổng Torii xếp dày đặc thành 2 hàng, cả 2 hàng dẫn từ chân núi Inari lên đến tận ngôi đền trên đỉnh núi. Một người bình thường muốn thăm đền sẽ mất 2-3 tiếng đi bộ dưới con đường cổng Torii này. Ở trên mỗi cổng có ghi ngày tháng và tên của những công ty đã tặng những cổng Torii này cho ngôi đền với niềm tin rằng việc làm đó sẽ mang lại may mắn và thành đạt cho công ty. Giá của mỗi cổng Torii này cũng không hề rẻ, cổng nhỏ có giá 400.000 yên và giá tăng dần theo kích cỡ, có thể lên đến 1 triệu yên.  Những con đường mòn trên núi xung quanh điện thờ có cổng torii (cổng đền Nhật Bản) dọc toàn bộ lối đi. Những chiếc cổng này được các cá nhân và công ty quyên tặng và mỗi chiếc cổng đều có tên của người quyên tặng và ngày quyên tặng được viết ở mặt sau. Đi trên những con đường dày đặc cổng trông như một đường hầm. Đèn lồng thắp sáng con đường vào những ngày ảm đạm. Điện thờ bằng đá, chạm khắc, thác nước và ao hồ tô điểm dọc theo những con đường, khiến những con đường mòn trở thành một nơi tuyệt vời để chụp ảnh.  Cáo được coi là sứ giả của thần Inari, tạo nên dấu ấn đặc sắc tại ngôi đền này, một trong những điểm tham quan lịch sử miễn phí của Kyoto. Du khách sẽ thấy những bức tượng bằng đồng của loài động vật này khắp địa điểm tham quan; một số con ngậm chìa khóa kho gạo


Chuyến đi trở lại lên đỉnh núi phải mất từ ​​hai đến ba giờ, nhưng đáng để du khách dành thêm thời gian dừng chân tại một trong những nhà hàng trên đường để nếm thử udon (một loại mì), đậu hũ chiên và sushi cùng trà nóng hoặc một chén rượu saké. Thậm chí có những quầy hàng bán bùa.


Nếu du khách quyết định leo thẳng lên đỉnh núi, du khách sẽ được tưởng thưởng bằng tầm nhìn khắp Kyoto, và càng leo cao thì càng có ít người. Nơi đây cũng đáng để du khách lang thang cho đến chập tối, khi những chiếc đèn lồng được thắp sáng, đem đến cho khung cảnh một vẻ đẹp kỳ ảo đặc trưng nơi đây nói riêng và cố đô Kyoto nói chung.

Theo: nhatban.vietnhat.tv

Thứ Hai, 9 tháng 8, 2010

Thần Inari

Inari là vị thần bảo hộ cho các thợ rèn. Chính xác hơn, đây là vị thần của nông nghiệp, công nghiệp, của thịnh vượng và thành công. Có thể nói đây là một trong những vị thần quan trọng và được thờ phụng rộng rãi trên toàn cõi nước Nhật. Hình tượng Inari phổ biến trong cả Shinto giáo và Phật giáo. Inari được xem là một nam thần, nhưng cũng có khi là nữ thần hoặc một vị thần lưỡng tính. Nếu là nữ thần, người Nhật Bản có xu hướng hòa trộn hình tượng Inari với Daikiniten hoặc với Benzaiten (một trong 7 vị phúc thần Shichifukujin). Bên cạnh đó, Inari là vị thần kết hợp từ ba hay năm vị thần khác nhau tùy tín ngưỡng mỗi vùng. Nếu kết hợp từ 3 vị thần ta có Inari-sanza, từ năm vị thần ta có Inari-goza.



Theo những tư liệu của đền Fushimi, đền thờ Inari cổ nhất tại Nhật Bản hiện đang tọa lạc tại Kyoto, thì Inari-goza bao gồm: Izanagi, Izanami, Ninigi, Wakumusubi và một vị thần bảo hộ lương thực. Sau này goza có sự thay đổi thành: Ukanomitama, Sadahiko, Omiyanome, Tanaka và Shi. Tại ngôi đền thờ Inari cổ thứ nhì là Takekoma, họ thờ Inari-sanza gồm: Ukanomitama, Ukemochi và Wakumusubi.

Đôi khi người ta thể hiện hình ảnh Inari trong lốt một cụ già, một con rắn hay con rồng, những phổ biến nhất là hình tượng con cáo Kitsune, vì cáo được xem là sứ giả của Inari. Những bức tượng Kitsune quàng một dải khăn đỏ, miệng ngậm thanh chìa khóa hoặc cuộn giấy có thể được tìm thấy ở khắp nơi tại Nhật Bản như nhà ga, trạm xe điện, những nơi đông người...Các bảo vật đi kèm Inari có thể kể đến như một viên ngọc ước, một cái liềm, bó lúa và tất nhiên, con cáo.

Tín ngưỡng thờ Inari được biết đến sớm nhất từ năm 711 - thời điểm xây dựng đền thờ Inari tại Fushimi, nhưng nhiều học giả tin rằng nó bắt đầu sớm hơn hàng thế kỉ. Đến thời Heian, thần Inari chính thức được hoàng gia công nhận và tín ngưỡng này nhanh chóng phát triển mạnh mẽ tỏng đời sống người dân cũng như quý tộc. Năm 833, hoàng đế Soga cho xây Todaiji (Đông Đại Tự) và đã phong Inari làm thần bảo hộ cho ngôi chùa này. Năm 942, hoàng đế Suzaku phong ông là một trong những vị thần đứng đầu do có công phù hộ dẹp yên bạo loạn. Vào thời đó, đền Fushimi là một trong 22 ngôi đền được hoàng gia bảo trợ và là điểm hành hương của dân chúng.

Lịch sử thờ thần Inari

Ban đầu, Inari chỉ được thờ như một vị thần nông nghiệp. Sau khi tín ngưỡng lan rộng, Inari được các tướng quân (shogun), các lãnh chúa (damiyo) rồi đến các ngư dân, diễn viên, thợ rèn...thờ như vị thần bảo hộ của mình. Trong vở kịch Nô nổi tiếng Sanjo Kokaji, Inari đã giúp thợ rèn Munechika rèn nên thanh bảo kiếm Kogitsune-maru, tức "con cáo nhỏ". Ngoài ra, Inari còn được coi là vị thần mang lại may mắn và thịnh vượng, thỏa nguyện những mong ước của con người. Người Osaka có câu "Byou Kobo, yoku Inari" nghĩa là bệnh cầu đến thần Kobo, mong ước cầu đến thần Inari. Nhưng chính thần Inari cũng được xem là có khả năng bảo vệ con người khỏi bệnh tật, còn phụ nữ cầu nguyện thần phù hộ cho con mình mạnh khỏe.

Sang thời Tokugawa, khi tiền dần thay thế lúa gạo trong việc đo lường mức độ giàu có của người dân Nhật thì Inari đóng vai trò thần thịnh vượng kiêm bảo trợ tài chính, thương nghiệp.

Vào đầu thế kể XVIII, người ta bỏ lá bạc hà vào tiền đồng để dâng cúng thần. Gạo, rượu sake cũng được dùng để dâng lên kitsune - sứ giả của Inari - để mong nó sẽ tâu những điều tốt đẹp đến thần. Ngoài ra họ còn có món Inarizushi, một loại sushi có đậu hủ chiên thường được chọn để mang cầu nguyện vì người dân Nhật tin rằng Kitsune rất thích ăn đậu hủ chiên.

Gọi hoặc Chat Zalo